Tuesday, May 19, 2020



Poem logo
Poem logo

Quê Hương Và Tình Yêu

QUÊ HƯƠNG VÀ TÌNH YÊU 



Em sắp say rồi !!! Uống nữa thôi ? 
Cờ chưa tan cuộc vẫn còn chơi !!! 
Giang hồ gác mái bên sông vắng, 
Trăng nước thuyền khua- một trận cười . 



Tình vẫn tràn như dòng nước chảy, 
Thơ còn đầy tựa áng mây trôi. 
Nửa đêm thức giấc hồn ngơ ngác, 
Rưọu hết tìm em - tận cuối trời… 



Cuối trời xin hẹn gặp lại em, 
Cho ấm bờ vai mắt hữu tình. 
Cho thắm bờ môi ngày tái ngộ, 
Cho nồng hương lữa kiếp ba sinh, 




Duyên xưa xuân đến bao lần gặp, 
Tình cũ thu đi chẳng dễ tìm . 
Rượu hết bên nhau chìm lối mộng, 
Hoa đào một cánh nở nguyên trinh… 



Nguyên trinh còn lại bao xuân nữa, 
Lữa lựu hè sang đỏ thắm tường. 
Bạn cũ trở về say hẹn ước, 
Người xưa nhớ lại lúc tha hương. 




Hoa trôi bến chợ đời lưu lạc, 
Dế gọi vườn hoang cảnh đoạn trường. 
Mẹ ngóng tin con mòn mõi đợi, 
Tiếng gà xao xác gáy thềm sương. 



Thềm sương tiếng cuốc gọi bên hè, 
Giọng chị hò ơ dưới luỹ tre . 
Giã gạo nuôi em ngày mẹ yếu, 
Bồng con đứng đợị buổi anh về . 



Canh rau tối ngủ còn lưng bụng, 
Cơm nguội khuya nằm dạ tái tê . 
Những tưởng ngày xuân tràn mộng đẹp, 
Nào hay mưa dột chẳng tranh che. 



Tranh che ta đắp bằng hương lữa, 
Môi giữa bờ môi giữ mặn nồng . 
Chẳng có chăn bông ngày ấm lạnh , 
Không thuyền đưa đón buổi qua sông. 

10 


Em thơ lội bộ giờ đi học, 
Mẹ yếu thâu đêm bắt muỗi mòng . 
Cảnh khổ ngày xưa ngồi nhớ lại, 
Qua rồi năm tháng những long đong. 

11 

Long đong trên bước đường lưu lạc, 
Bốn hướng về đâu dặm hải trình. 
Biển rộng trời cao bằng sãi cánh, 
Sông dài núi thẳm gót phiêu linh. 


12 

Công cha nghĩa mẹ còn chưa trả, 
Ơn chị tình em hẹn đáp đền. 
Nắng nhuộm rừng phong. Thu đã tới, 
Bên hồ từng chiếc lá lênh đênh... 

13 

Lênh đênh như chiếc thuyền không bến, 
Dòng ngược dòng xuôi vạn nẽo đời. 
Trên bến dưới thuyền người tấp nập, 
Sông hồ nước chảy lục bình trôi. 


14 

Sáng qua Phú Quốc trời êm ả, 
Chiều ghé Côn sơn núi vẽ vời. 
Mây nước xa trông về cố quận, 
Nỗi lòng thương nhớ biết sao vơi... 


15 


Sao vơi lòng biển tình sông đó, 
Cuả kiếp giang hồ với nước mây. 
Lên bến đò chiều thương kẻ bắc, 
Qua sông nắng sớm nhớ trời tây. 

16 

Thơ vương khói thuốc sầu vương nhạc, 
Rượu hết đàn run phím lạc dây. 
Cô lái đò xưa đưa lữ khách, 
Sông buồn đôi mắt thấy cay cay… 

17 

Cay cay đôi mắt chiều xuân đó, 
Cô gái ngày xưa chẳng trở về. 
Gió núi đèn khuya vàng phố thị, 
Trăng rừng sương lạnh trắng sơn khê . 

18 


Hoa không vạn cổ mà phong nhụy 
Tình chẳng trăm năm cũng vẹn thề. 
Lời của trăng nguyền dù bến cạn, 
Rừng xanh núi thẳm chẳng phân ly… 


19 

Ly hương gặp lại mùa hoa nở, 
Chim én bên trời vụt cánh bay, 
Nhạn lạc bầy tìm nhau biển bắc, 
Anh tìm em lội khắp trời tây. 

20 

Sáng lên New York sương mờ lạnh, 
Chiều lại Boston tuyết phủ cây... 
Anh trở về vui lòng phố thị , 
Em về rượu uống trắng đêm say... 


21 


Say cho bỏ những ngày dong ruổi, 
Cho bỏ sầu đong lắc lại đầy . 
Để nhớ gừng cay thương muối mặn, 
Cho lòng ai vẫn nhớ thương ai. 

22 

Đêm về phố mộng sương giăng mắc, 
Ngày lại mưa đông gió thổi mây. 
Lánh đục cho dòng đời thanh thoát, 
Để lòng vơi bớt nỗi niềm tây. 

23 

Niềm tây mây gởi buồn theo nắng 
Ta gởi tơ lòng trãi bốn phương. 
Bướm gởi hồn thơ qua lối mộng , 
Cho tình trả nợ kiếp tơ vương. 

24 

Ngẩn ngơ trăng cũng buồn theo gió, 
Thơ thẩn sầu đong giữa nắng ngàn, 
Thì thôi sầu ấy ngàn đêm lẻ, 
Góp lại cho tròn gởi gió sương . 

25 

Gió sương từ độ bước quan hà, 
Mưa nắng bên trời giọt lệ sa. 
Xa nước bao đêm sầu cố quốc, 
Tha hương ngàn dặm nhớ quê nhà. 

26 

Chín chiều ruột thắt bầm gan mẹ, 
Một tấc lòng son xót dạ cha . 
Mong ước sao khuya trời tỏ rạng , 
Mơ ngày mai lại cảnh phồn hoa 


27 

Phồn hoa mơ lại ngày ta gặp, 
Tôi với em đi giữa phố phường. 
Má đỏ son hồng còn thắm sắc, 
Hoa cài aó trắng vẫn thiên hương. 

28 

Ngây thơ nhắc lại ngày hoa bướm, 
Thờ thẩn rồi quên buổi tựu trường. 
Kỹ niệm ngày xưa tràn ngập lối, 
Đêm về thao thiết nhớ muôn phương. 

29 

Muôn phương bè bạn tình thân mến, 
Của kiếp nhân gian giữa chợ đời, 
Buổi loạn ly rồi bao kẻ khóc, 
Ngày thanh bình lại lắm người vui. 

30 

Trăng về phố Hội mây giăng lối, 
Thuyền ghé Đà giang sóng vẽ vời. 
Núi Ngũ hành sơn năm ngọn tỏa, 
Phượng hoàng xoè cánh đã ra khơi. 


Chú thích: 
[1] Ngũ hành sơn ,danh lam thắng cảnh đất Quảng nam,với truyền thuyết “ngũ phụng tề phi” năm phụng đồng bay . Đó là: 
Theo văn bia tiến sĩ Mậu Tuất 1898 dựng trong khuôn viên di tích Văn Thánh Huế, thì khoa thi này, ngoài Đào Nguyên Phổ đỗ đầu với danh Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, những vị Tiến sĩ còn lại đều là Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. 
1 Phạm Liệu 2Phan Quang 3 Phạm Tuấn4 Ngô Chuân 5 Dương Hiển Tiến [cả 5 vị trên đều đỗ tiến sĩ cùng khóa và cùng quê Quảng nam... 


31 

Ra khơi sóng tỏa muôn trùng thẳm, 
Biển biếc trời xanh núi ngút ngàn. 
Côn đảo mây che hè nắng đỗ, 
Trường sa mưa tạnh buổi đông sang. 

32 

Ngựa hồ gió lạnh hí phương bắc, [1]] 
Chim Việt đậu cành chọn hướng nam. 
Ta giống Rồng Tiên dòng Lạc Việt , 
Làm sao tỏ mặt với lân bang… 


Chú thích: 


[ 1 ]Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi. 
Nghĩa là: Ngựa Hồ hí gió Bắc, Chim Việt ở cành Nam. 


Chim Việt là loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn. Vì khi thu sang, phương Bắc có nhiều chỗ có giống lúa mới vừa chín…dễ kiếm ăn. 
Tuy sang phương Bắc nhưng đàn chim Việt vẫn nhớ quê hương. Muốn làm ổ, chúng chọn cành cây chĩa về phương Nam, tức là hướng quê nhà mà chúng sinh trưởng. 
Chim Việt tức (Việt điểu) để chỉ chim nhớ quê hương cố quốc. 
Ngựa Hồ là ngựa ở nước Hồ. Nước này ở về phương bắc nước Tàu mà ngày xưa người Tàu thường cho là nước man rợ hay cũng gọi là Phiên quốc. Ngựa Hồ cao lớn, leo núi rất giỏi, chạy rất nhanh. Người Trung Quốc thường mua về làm ngựa chiến . Nước Hồ vốn ở xứ lạnh , khi đông về, gió bấc thổi, tuyết rơi lả tả, gió lạnh tê tái. 
Ngựa Hồ tuy về Trung Quốc, là nơi tương đối ấm áp nhưng vẫn nhớ đến đất Hồ , mỗi độ đông về khi có gió bấc lạnh [là gió từ phương bắc thổi đến, ngựa cất tiếng hí lên thê thảm tỏ lòng nhớ cố quốc. 

"Chim Việt ngựa Hồ" trở nên thành ngữ, có nghĩa bóng là loài vật mà cũng không quên nơi quê cha đất tổ , dù ở nơi đất khách quê người. 

33 

Lân bang có kẻ ưa dòm ngó, 
Sự nghiệp cơ đồ của tổ tiên. 
Hoa thắm trời Nam ngàn thế hệ, 
Non xanh đất Việt trải ba miền. 

34 

Đằng Giang bẩy địch xua Nam Hán,[1] 
Vạn Kiếp điều binh đuổi giặc Nguyên.[2] 
Con cháu đồng lòng chung nghiệp cả, 
Lo chi non nước chẳng bình yên… 


Chú thích: 
[1] Trận Bạch Đằng, năm 938 [.wikipedia.] 
Năm 937, thế lực họ Kiều ở châu Phong tổ chức binh biến, giết chết Dương Đình Nghệ, đưa Kiều Công Tiễn lên nắm quyền, Công Tiễn tự xưng Tiết độ sứ. Hành động này đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các thế lực hào trưởng các địa phương, thậm chí chính nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Ngô Quyền, với danh nghĩa là bộ tướng và con rể của vị cố Tiết độ sứ, đồng thời cũng là người đứng liên minh Ngô - Dương, tập hợp lực lượng tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn hoảng sợ, vội vã sai người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Nam Hán Cao Tổ sai con trai là thái tử Lưu Hoằng Tháo đem hai vạn quân, dùng chiến thuyền, xâm lăng. 
Năm 938, Ngô Quyền đem quân ra Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn và nhanh chóng tổ chức kháng chiến chống quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp. Ngô Quyền dự định nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến. 
Kết quả, quân Nam Hán thua chạy, thái tử Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lấn. Với mưu lược thần tình của mình, Ngô Quyền đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng nổi tiếng năm 938, kết thúc hơn một thiên ky Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ cho Việt Nam…. 
Về trận Bạch Đằng, Ngô Thì Sĩ đánh giá : 
“ 
Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng chiến công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu… 
[2] Trận Vạn Kiếp [wikipedia.] Từ ngày 11 tháng 2 năm 1285 đến ngày 14 tháng 2 năm 1285 tại Vạn Kiếp, 20 vạn quân Trần với hơn 1000 chiến thuyền đã chống trả quyết liệt cuộc tiến công của 30 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy. Để bảo toàn lực lượng, quân Trần rút khỏi Vạn Kiếp. Tháng 5 năm 1285, quân dân nhà Trần bắt đầu phản công. 
Cuối tháng 5, sau thảm bại tại Tây Kết và Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay), quân Nguyên tìm cách rút quân về nước. Đầu tháng 6, trên đường rút chạy qua sông Như Nguyệt bị cánh quân của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản chặn đánh. Cánh quân của Thoát Hoan và Lý Hằng chạy theo đường Vạn Kiếp bị quân phục kích nhà Trần bố trí từ trước xông ra phản công. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Lý Hằng tử trận. Thoát Hoan được một viên tì tướng "giấu trong ống đồng" chạy thoát về Trung Quốc theo hướng Lạng Sơn. Cùng với các trận chiến khác, trận Vạn Kiếp đã góp phần quan trọng quét sạch 50 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Đại Việt. 
[Vạn Kiếp nay thuộc vùng Vạn Yên, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương có đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn... 


35 

Bình yên ruộng lúa với nương dâu, 
Phố xá bừng lên ánh nhiệm màu 
Bến Nghé thiếp sang ngày hội ngộ 
Hà tiên chàng lại buổi hoàn châu. 

36 


Hoa xưa hẹn lối ngày phong nhụy, 
Trăng cũ thề đưa nối nhịp cầu. 
Cách trở khôn ngăn dòng lá thắm. 
Tình chàng ý thiếp gởi muôn câu… 


37 

Muôn câu ý đẹp tình thêm đẹp, 
Rượu tiễn chàng đi bước hải hồ.[5] 
Vạn dặm gươm hồng tung vó ngựa, 
Ngàn năm khuê các dậy lầu thơ...[6] 

38 

Ta vây Khương thượng,giặc tan vỡ, 
Địch đến Nhị hà, nươc nghẽn bờ.[7] 
Thây giặc chất cao thành gò Đống,[8] 
Thanh triều nửa tĩnh nửa như mơ...[9] 


Chú thích: 

[5] Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa “phù Lê”, vào chiếm đóng Thăng Long.Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế … , chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - cố thủ chờ lệnh. Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân , Nguyễn Huệ thống lãnh đại quân tiến ra Bắc. Ngọc Hân công chúa tức Hữu cung hoàng hậu tiễn đưa [ …Rượu tiển chàng đi bước hải hồ , Vạn dặm kiếm hồng tung vó ngựa …] 
[6]. Ngọc Hân Công chúa là một cô gái thông minh, một nữ sĩ tài hoa ,hương sắc vẹn toàn .Từ nhỏ đă được học thông kinh sử và giỏi thơ văn .Bà đã nỗi tiếng trong làng thơ nôm với bài “Ai tư vãn” gồm 164 câu,theo thể song thất lục bát ca tụng chiến công vua Quang Trung Nguyễ n Huệ [ Ngàn năm khuê cát dậy lầu thơ…] 
[7,8] Đêm 30 tháng Chạp âm lịch Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn quân lính bỏ mạng. [Ta vây Khương Thượng giặc tan vỡ …] Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa. [Thây giặc chất cao thành Gò Đống…] 
Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. [Địch đến Nhị hà nước nghẽn bờ ]… Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới cho đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Tàu ở biên giới dắt nhau bỏ chạy làm cho suốt năm sáu chục dặm đường không có bóng người và trâu bò súc vật… 
Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày với kế hoạch tốc chiến tốc thắng ,với thiên tài mưu lược về quân sự của Nguyễn Hụê , quân Tây Sơn với quân số 10 vạn [phần lớn là dân quân chưa được tập luyện] đã đánh tan 29 vạn quân Thanh , lập nên một kỳ công hiển hách nhất trong lịch sữ nước ta và cả thế giới...Trưa mồng 5 Tết xuân Kỹ Dậu, Quang Trung với chiến bào đầy khói đen ,trên mình voi nhuộm đầy khói súng tiến vào thành Thăng Long trong sự vui mừng hã hê chào đón của toàn dân. … [Sau này khi nhớ lại lời hứa hẹn 10 năm sau vua Quang Trung sẽ lấy lại 2 tỉnh Quảng đông và Quảng tây mà Tàu đã chiếm của nước Nam ta trước kia không phải là lời nói quá nếu nhà vua không mất sớm…]!!! 
[9]Tin bại trận đưa về, Càn long mắt nhắm mắt mở, nửa tĩnh nửa mê…Thôi rồi giấc mộng đế quốc bành trướng của triều Thanh tan tành thành mây khói…[Thanh triều nửa tĩnh nửa như mơ…] 
[ thơ Dương Lam ] 


39 


Như mơ ngày Tết xuân năm ấy, 

Nguyễn Huệ oai hùng giữa núi sông. 

Áo trận thơm nồng xuân Kỷ Dậu, 

Giáp bào rạng rỡ đất Thăng Long. 


40 



Trời Nam Lừng Lẫy Trang Hào Kiệt, 

Sử Việt Vang Danh Giống Lạc Hồng. 

Thắp nén hương lòng dâng Tổ Quốc, 

KHÓI TRẦM LỘNG GIÓ QUYỆN TRỜI ĐÔNG... 

41 


Trời đông một sáng tưng bừng dậy , 
Dân Việt hò reo giữa biển khơi. 
Hải đảo đất liền hoa thắm nở, 
Rừng xanh núi thẳm lá xinh tươi. 

42 

Cha xây bờ cõi nghìn hoa gấm, 
Mẹ viết muôn trang sử tuyệt vời. 
Em hẹn anh về cùng hội ngộ, 
Bên dòng sông Cửu nước xanh tươi. 


43 


Xanh tươi dòng nước Cửu long giang, 
Tưới cánh đồng quê trĩu lúa vàng, 
Cô gái bên sông hò ới lã !!! 
Anh mau về kịp chuyến đò sang . 

44 

Lòng em như chiếc thuyền nan nhỏ, 
Lèo lái đưa anh suốt dặm ngàn! 
Thuyền nhỏ nhưng tình em không nhỏ, 
Anh về mau kịp chuyến đò ngang. 


45 


Đò ngang đò dọc người chen chúc , 
Tình Bắc Trung Nam- nghĩa đá vàng. 
Sương sớm nắng che hồ Ba Bể, 
Mưa chiều mây phủ Ngũ hành san. 

46 

Ai qua Bản Giốc lòng rưng lệ, 
Người đến Nam quan hận bẻ bàng. 
Kiếp Bạc trăng soi hồn vạn cổ, [1 ] 
Hồ Tây mây phủ mấy lần sương. 
Chú thích: 
[1] [Đền thờ Đức Trần Hưng Đạo] 


47 

Sương phơi nắng trải lòng mong mõi, 
Chờ đợi em về thơ nở hoa ? 
Bên giọng hò lơ tình bãng lãng, 
Điệu đàn khoan lã ý bay xa ... 

48 

Yêu kiều thục nữ bên sương sớm, 
Yểu điệu thuyền quyên giữa nắng tà. 
Con bướm vàng bên hiên thỏ thẻ, 
Như tình em gái thuở mười ba. 

49 


Mười ba thuở ấy lòng e thẹn , 
Như gió như mây chẳng hẹn hò. 
Như nước sông Hương dòng bẽn lẽn, 
Gởi tình Vỹ Dạ nón bài thơ . 

50 


Trường Tiền nắng đổ mười hai nhịp, 
Thiên Mụ chuông sầu vạn cổ xưa . 
Hẹn gặp lại em ngày qua Huế, 
Về đò An cựu tắm chiều mưa… 

51 

Chiều mưa nghe gió Hoàng sa lạnh, 
Tráng sĩ dừng cương lạnh buốt lòng. 
Kiếm gỏ sao khuya chờ biển tạnh, 
Gươm mài núi khuyết đợi trăng trong. 

52 

Vua Hùng dựng nước- ngàn năm trước, 
Dân Việt cùng xây- một chữ đồng, 
Hẹn quyết ngày mai thề lấy lại, 
Tấc vàng tất đất của cha ông 

53 

Cha ông yêu quí từng cây cỏ, 
Từng cánh cò bay bạt trắng ngàn. 
Tiếng sáo dập dìu trong khoảng vắng, 
Giọng hò êm ả giữa chiều sương. 

54 

Đàn trâu thong thả về ngang xóm. 
Lũ trẻ hò reo trở lại làng . 
Bà lão đêm đêm cầu Trời Phật , 
Muôn nhà vạn sự được an khang… 


55 

[Thay Đoạn Kết] 

KHANG AN MỘT CÕI TRỜI HOA 

CON RỒNG CHÁU LẠC NHÀ NHÀ ĐẸP VUI 

Nằm đêm góp nhặt đôi lời 

Chúc Em Hạnh phúc chúc Đời Tự Do... 



Dương Lam[vophubong]

Tóm Tắt Nhanh Xuân Thu - Chiến Quốc / Spring Autumn and Warring States p...

This river is FULL of food! (Hến trộn + Bánh bèo)

This river is FULL of food! (Hến trộn + Bánh bèo)

Thursday, May 14, 2020

mi quang - phu chiem - Mì quảng phú chiêm

mi quang - phu chiem - Mì quảng phú chiêm




MÌ QUẢNG - PHÚ CHIÊM


MÌ QUẢNG - PHÚ CHIÊM

https://www.youtube.com/watch?v=Y7kL1VJUhSo&feature=share  
MÌ QUẢNG - PHÚ CHIÊM

Mỗi sáng tinh mơ, từ làng quê Phú Chiêm (Điện Bàn, Quảng Nam) thanh bình, những gánh mì theo chân các mẹ, các chị tỏa khắp các nẻo đường quê, lên phố huyện hay theo những chuyến xe đò sớm nhất về các huyện lân cận.

Giữa bao nhiêu món quà điểm tâm thơm ngon và quyến rũ, hàng mì Phú Chiêm luôn khá dân dã và thân thương với đôi quang gánh, vài chiếc bàn cùng vài cái ghế trên một khoảng đất trống dưới gốc cây đa, cây bàng,.... Nhưng hàng mì Phú Chiêm lúc nào cũng đông khách, cô bán mì hai má ửng hồng bên bếp than, nụ cười xinh tươi, đôi tay dịu dàng, thoăn thoắt chan mì cho khách.

Người ta thường nói vui rằng, đến Quảng Nam mà chưa ăn mì Quảng thì xem như chưa từng đến. Còn người Quảng Nam hay "nói dóc" rằng, ăn mì Quảng mà chưa từng ăn mì Phú Chiêm thì đừng kể gì hết.

https://www.youtube.com/watch?v=uWRvOENy8fE

Friday, May 8, 2020

LÀNG DỆT BẢY HIỀN

LÀNG DỆT BẢY HIN


Khi còn ở Việt nam tôi không bao giờ nghĩ được rằng sang Mỹ đồng hương mình lại có dịp tụ họp đông vui như năm rồi. Bên Việt nam , đất Bảy hiền không rộng , nhà cửa gần nhau san sát từng cụm, mỗi sáng ra đường , đi chợ ,uống cà phê là gặp mặt nhau ,chào hỏi nhau dòn dã. Cả khu dệt chỉ có 2 con đường nhỏ: Nguyễn bá Tòng và Hồ tấn Đức - bây giờ là Nguyễn-bá-Tòng và Võ -thành- Trang- song song nhau nối liền khu xóm dệt đông vui, ồn ào, náo nhiệt ngày đêm. 

  Ồn ào vì từ sáng đến chiều,đến nửa khuya,tiếng khung cửi dệt rào rào như tiếng mưa rơi xầm xập ,hồi đó ở đây mọi người nói chuyện với nhau rất to ,bỡi vì với âm điệu bình thường không thể nào nghe nhau rõ 

 ...Hồi mới sang Mỹ,những ngày tháng đầu tôi thường phát âm thật lớn,mỗi lần nói chuyện,mọi người đều nhìn tôi lạ lùng không hiểu nhân vật nầy ở đâu ra mà to tiếng thế? Ở Việt nam cũng vậy ,dân Bảy hiền đi ra ngoài thường có giọng phát âm sang sãng vì mọi người tưởng chừng như nói nhỏ không ai nghe được.Riết rồi dân xóm dệt trở thành ăn to nói lớn.Ăn to bỡi vì nhìn lại xóm có dệt tí tẹo,thế mà quán xá lu bù. Trên đường nhỏ ngay xưởng hồ của Hồ Trung,bánh bèo,bánh xèo,mì Quảng, hù tiếu,phở ... mọc lên lũ khũ. Tối thứ bảy ,chủ nhật qua đây,tiếng người nói chuyện,tiếng lữa reo, tiếng bánh xèo đổ " xèo xeò" tiếng xe Honda chạy ì ầm taọ thành một âm thanh ồn ào khó tả.Những người dân đất Quảng tha hương-sống loanh quanh Sài gòn-thường trở về đây tìm lại dư hương xa xưa với những món ăn quê hương, giữa khung cảnh náo nhiệt nhưng đầy thân yêu ,đầm ấm nơi xứ lạ. Bảy hiền là quê hương thứ hai cuả những người dân đất Quảng xa xứ.Về đây để nghe laị giọng nói quê mình,những mô ,tê, ri , rứa; những ni ,nớ ,mi, tau. Ôi !những âm điệu thân yêu,trìu mến đó ,từ lọt lòng ra mình đã nghe - như ăn, như uống - đi sâu vào tâm thức mình ,xương tủy mình ,trong từng giấc ngủ ,chiêm bao .Để rồi mỗi lần tha hương,nơi đất lạ quê người, lại thèm nghe giọng nói đó,âm thanh đó như thèm ăn những đặc sản nơi quê mẹ. Ở đây --những ngày còn sinh sống nơi đất Sái gòn - mỗi lần ra đường,ra chợ,giữa đám đông người,nghe có giọng miền Trung là vợ tôi lại lân la hỏi chuyện . -Anh chị ở Quảng nam ? Dạ,tôi ở Tam kỳ. - Chị ở Đà nẵng. - Em ở Duy xuyên- Được nghe lại giọng nói đó,bao giờ chúng tôi cũng thấy lại vui ,lại gần gủi nơi quê cha đất tổ. Tôi biết và tôi không hiểu được vì sao,có những người khi xa quê hương lại từ bỏ giọng nói quê hưong mình, chê nó quê mùa ,cục mịch.
Ôi ! quê hương .Quê hương đối với ta bao giờ cũng đẹp,cũng thân yêu. Bỡi vì ông bà ta đã sinh ra từ đó , cha mẹ ta đã sinh ra từ đó.Và từ đó,ta đã nằm trong nôi,nghe tiếng hát mẹ à ơi ,vỗ về từng câu ca dao ngọt lịm.
" Ngó lên Hòn kẻm đá vừng,thương cha ,nhớ mẹ qúa chừng bạn ơi".
Những buổi trưa hè oi bức nằm lim dim trên chiếc võng tre kĩu- kịt bên hiên, nghe tiếng chị ru à ơi :
"Cây da mô cao cho bằng cây da Bàn lãnh, đất mô thanh cảnh cho bằng đất Bảo an, chỗ mô vui cho bằng chỗ phố chỗ Hàn ,dưới sông tàu chạy trên đàng ngựa xe ." hay :" cầm cân xuống phố mua vàng , gặp anh giữa đàng bảy lượng còn ba , về nhà nói dối bà gia , dọn đường quét ngỏ tháng ba dâu về , dâu về dâu chẳng về không , ngựa ô đi trước ngựa hồng đi sau , mâm trầu lại với mâm cau , có thằng nho nhỏ đi sau quạt hầu ."
Những câu ca dao mịn màng ,êm ấm đó như ru ta vào giấc ngủ thần tiên của tuổi ấuthơ ,nơi quê hương của một thời yên bình dĩ vãng.
Rồi chiến tranh xảy ra , bom đạn cày xéo trên quê cha ,đất tổ , người dân xứ Quảng cũng bỏ xứ ra đi ,trăm phương nghìn hướng ,nhưng tựu trung nhiều nhất về miền nam , vùng Sài gòn-Gia Định .Một số đông về xã Phú-thọ hòa và Tân sơn hòa [thuộc quận Tân bình] mà lập nên một làng dệt Quảng nam với tên gọi mới là làng dệt Bảy hiền .Từ Sài gòn đi về hướng Tây ninh làng dệt nằm ngay góc trái của ngã tư giao lộ đường Lê văn Duyệt và Nguyễn văn Thoại . Phía bên kia là đường Hồ tấn Đức ,lối vào nằm trên đường Nguyễn văn Thoại , ngay đầu đường vào có quán cà phê " Gió " nỗi tiếng của lớp bạn trẻ . Những cô thợ dệt trẻ hay các nữ sinh đi ngang qua đây thường đi rất nhanh để tránh những lời chọc ghẹo của các cậu thanh niên vừa uống cà phê vừa nhìn ra đường dòm ngó .Giống như bao nhiêu quán cà phê khác ở trên toàn cỏi VN ,quán Gió cũng có một cô hàng cà phê nhỏ nhỏ,xinh xinh ,để ngày ngày các anh thợ dệt ,các cậu học sinh , rỗi công ra đây tán tĩnh để rồi bỏ quên " cây đàn ", à không " cái thoi " . Cái thoi anh bỏ đâu rồi ? Anh về anh thấy bồi hồi nhớ em .Em được thì cho anh xin. Hay là em để trong tim em rồi... Hay một anh chàng học trò khờ ,sính văn chương về nhà làm thơ con cóc. " Con cóc trong hang con cóc nhảy ra,con cóc nhảy ra ,con cóc ngồi đó ,con cóc ngồi đó,con cóc nhảy đi...để rồi nhà thơ con cóc cùng các chàng thợ dệt đua nhau trồng những cây si to tổ bố như những gốc đa trong quán cô chủ .Một ngày nọ cô nàng đi lấy chồng ,bao nhiêu anh chàng đâm ra thất tình về nhà ca bài ca " con sáo" . Con sáo sang sông còn trông con sáo lại , em đi lấy chồng rồi anh dệt lụa cho ai ? Còn cô nàng cà phê , bẳng đi mấy năm sau , tôi có gặp cô về Bảy hiền ,nhưng nay thì em đã tay bế , tay bồng , nghe đâu chồng cô - một võ sĩ có hạng thời đó - đã từng thượng đài đoạt giải vô đich nhiều lần về võ thiếu lâm ở Chợ lớn ,nhưng sau vì tham dự vào một băng cướp nào đó nên vào tù , bị đày ra Côn đảo , cô nàng dắt mấy đứa con nhỏ về lại Bảy hiền ,nương nhờ ông bà ngoại Từ đường Nguyễn bá Tòng đi thẳng lên , qua xưởng hồ của Hồ Trung thì đến chợ bà Hoa .Đây là một ngôi chợ nhỏ ,bán toàn đồ ăn đặc sản miền Trung ,rau cải và một ít vải vóc . Trước 75, Bà Hoa chủ chợ - không phải là một nhân vật lịch sử ,hoang đường hay truyền thuyết - như các Bà Hom , Bà Quẹo , Bà Điểm ... xung quanh đây - mà bà Hoa là một người thật việc thật . Bà ta bỏ tiền ra mua khu đất này của nhà thờ , xây chợ cho thuê rồi cho người ra thu thuế . Một người đàn bà to con ,bậm trợn và phi thường nên việc làm cũng phi thường .Gần đến ngày 30 tháng 4 , bà ta ,trước khi bỏ của chạy lấy người, cũng lanh lẹ hốt được một cú hụi chót , bằng cách ranh mãnh đem bán những ngôi nhà xung quanh chợ, cho những người chân ướt chân ráo chạy loạn từ Đà nẵng vào Sài gòn để lấy được một số vàng không phải nhỏ bằng những văn tự là những tờ giấy mua bán viết tay - như những tờ giấy lộn không hơn không kém [nhưng nhờ lúc đó là thời hổn mang,nên những người mua nhà của bà cũng hợp thức hóa được sau khi phải tốn một số tiền khá lớn vào thời đó].Đặc biệt tại chợ này có gian hàng bán quanh năm những thứ bánh trái miền Trung, Quảng nam như:

  bánh ú [ loại bánh nấu bằng nếp có nhân đậu xanh , gói lá chuối , có bốn góc rất đẹp mắt ] loại bánh này có bán hầu hết tại các quán mì Quảng cuả miền Trung mà hồi nhỏ tôi rất thích vi vừa số tiền ăn vặt được mẹ cho , vừa có chất lượng vì no bụng để đủ sức chạy nhảy ,đá banh ,kéo co ... thỏa thich ;loại bánh thứ hai cũng gói bằng nếp lá chuối nhưng có hình tháp vuông và lớn gấp ba bốn lần cái bánh ú cũng nhân bằng đậu xanh ,đó là cái bánh rò được dùng để cúng trong các dịp giỗ quẩy ; rồi đến bánh tét dài và tròn có nhân ở trong bằng thịt dùng để cúng vào các dịp tết đến ...



[ còn tiếp]
---------------------------------------------------

1 nhận xét:

Nguyen Thi Hoai :
Chào Ông, Cám ơn ông về bài viết rất hay ghi nhận về một "làng nghề/xóm nghề dệt" của người Quảng ở Sài Gòn. Cho đến nay, rất ít tài liệu đề cập về văn hóa làng nghề như trong bài viết của ông. Tôi cũng là người Quảng Nam, quê tôi ở Đại Lộc. Qua những hiểu biết của ông, tôi nghĩ ông có lẽ cũng khá cao tuôi. Tôi sinh năm 1973, chắc thuộc hàng con cháu của ông thôi! Đọc bài viết tôi như được sống lại tuổi thơ với những điệu hò, lời ru ngày còn bé ở quê nhà. Hiện nay tôi sinh sống tại TPHCM (dù không ở quận Tân Bình, tôi cũng thường xuyên đến khu chợ Bà Hoa để ăn mỳ Quảng, bánh xèo và mua đường tán, bánh rò để cúng ông nội. Tôi đang làm việc ở một Viện nghiên cứu, tôi đang quan tâm đến lịch sử và văn hóa của các làng nghề/xóm nghề thủ công truyền thống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nếu có thể, ông có thể viết/cung cấp thêm về quá trình hình thành và phát triển của khu dân cư làm nghề dệt; các hoạt động văn hóa liên quan đến nghề dệt: về nguồn gốc quê quán (lễ cúng xóm, lễ kỳ yên chẳng hạn...), những câu thơ truyền miệng, bộc phát trong lao động của những người thợ dệt,... Tôi rất mong được làm quen để học hỏi thêm những hiểu biết của ông. Tôi rất mong nhận được email của ông. Trân trọng kính chào Nguyễn Thị Hoài Hương Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh 28 Lê Quý Đôn, quận 3, TPHCM. ĐT: 0913115243 Email:huongbeads@gmail.com

--------------------------------------------------------------


Những hình ảnh và bài viết liên hệ đến ngành dệt ở BẢY HIỀN:




May det vai tho so hoan toan bang go tu che...
 



Cô gái Bảy hiền bên khung cửi
tay nối tơ - em dệt lụa cho đời
mấy độ xuân về hoa vàng rực rỡ
tấm lụa cho mình em dệt xong chưa ?  
[tho vophubong]­­

chaobuoisang.net/lang-det-bay-hien-ngay-nay- 

Không màu sắc, không hoa văn, vải của làng dệt Bảy Hiền (quận Tân Bình, TP.HCM) đơn giản, mộc mạc như chính con người nơi đây.
Hàng chục năm về trước, làng dệt Bảy Hiền là một trong những nơi cung cấp sản lượng vải nhiều nhất cho cả nước. Cũng nhờ vào ngón nghề truyền thống mà những gia đình xứ Quảng ấy có thể sống sung túc ở Sài Gòn. Ngày nay, trong thời buổi cơ chế thị trường, vải vóc ngoại nhập tràn vào khiến những tấm vải dệt của Bảy Hiền ngày càng trở nên khan hiếm hơn. Làng dệt Bảy Hiền tuy không còn mạnh mẽ, thịnh vượng như trước, nhưng đã để lại dấu ấn một thời và cũng là niềm tự hào của người dân xứ Quảng giữa lòng thành phố.

Giờ đây, làng dệt Bảy Hiền chỉ còn lại một số ít hộ gia đình theo nghe det

Làng dệt Bảy Hiền ngày nay

Image result for khung cui det o lang det Bay hien


Dung det

Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 1
Bo chi vao thoi
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 6

Ke
     
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 5

Tuổi đời của các khung dệt dường như lớn hơn cả người thợ dệt
Không ít người đã bỏ nghể vì sức khỏe, vì thị trường vải dệt từ khung cửi bị bó hẹp.
..
Làng dệt Bảy Hiền ngày nay


Đây là những chiếc máy dệt ở làng dệt Bảy Hiền bây giờ còn lại rất hiếm...Loại máy nầy tuy cổ điển nhưng cũng tiến bộ rất nhiều so với những máy dệt thời sơ khai rất đơn giản mà bây giờ khó tìm thấy...

http://www.monre.gov.vn/v35/uploaded/5/15095_O_nhiem_tieng_on_va_bui_lang_nghe_Ma_Chau_deu_vuot_nguong_cho_phep.jpg


Máy quay tơ... [côn chỉ sợi từ chẻ vào ống để mắc cửi dệt...] 



http://nhandaovadoisong.com.vn/wp-content/uploads/a35.jpg


Máy mắc cửi ...[mắc cửi từ ống vào trục để đưa lên khung dệt]


May suot chi bo vao thi de det
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 2


Máy dệt ông Cữu Diễn - một tổ sư nghề dệt Quảng nam  - người làng Thi lai,  Duy xuyên, QN - ......Máy hoàn toàn bằng gổ với ít phụ tùng sắt thép do thợ rèn tự chế...Sau nầy, trước 75,người Bảy hiền cải tiến bằng cách tự đúc hoàn chỉnh bằng sắt ...] 

Những người thợ cuối cùng...còn gắn bó với nghề...Tương lai ngày mai...nghề dệt về đâu...





Đây là chiếc máy dệt aó thun ,loại nhập...Loại máy này thành phẩm ra rất nhanh ,cạnh tranh với với ngành dệt cổ điển...


Những năm 2000, vải từ Trung Quốc sang ồ ạt tràn vào thị trường TP.Hồ Chí Minh. Vải Trung Quốc có nhiều mẫu mã đẹp mà giá thành lại rẻ nên hàng vải của làng dệt Bảy Hiền không cạnh trạnh nổi. Để giành lại thị phần cung cấp vải, nhiều hộ gia đình đã chi tiền đầu tư máy kiếm, máy kim hơi từ Trung Quốc, Tây Âu để tăng năng xuất lao động đồng thời tăng số lượng vải. Nhưng số lượng vải làm ra lớn lại tiêu thụ kém dẫn đến tồn kho, thua lỗ.
Anh Trương Mậu Long (41 tuổi) cho biết : “ Trong làng còn 6 hộ dùng máy khung gỗ như cơ sở Trương Tôn, Cô Quê, Huynh Giai, Minh Hiển,… còn đa phần các hộ gia đình thì đã đầu tư máy kim, máy kiếm của Trung Quốc để sản xuất. Nhưng hàng hóa làm ra tồn kho nhiều, nên nhiều nhà đi đến vỡ nợ. Gia đình tôi chỉ sử dụng máy khung gỗ Nghè Diễn mà không dám đầu tư”.
Làng dệt Bảy Hiền ngày càng đi vào ngõ cụt, đa phần hộ dân đành chuyển sang kiếm sống bằng nghề khác. Những thương hiệu vải nức tiếng một thời như Phúc Trang, Trương Tôn, Huỳnh Giai …dần đi vào dĩ vãng. Những con đường sầm uất nơi đóng đô của cơ sở dệt như Võ Thành Trang, Nguyễn Bá Tòng, Tái Thiết đã lặng tiếng thoi đưa. Chỉ còn vài chục hộ dân còn vướng vấn với nghề dệt này .
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 3
Sau quá trình cải tiến, máy dệt khung gỗ được cải tiến lên tới 20 thước (2 mét)
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 4
Dù đã 87 tuổi, Cụ Trương Tôn vẫn hàng ngày miệt mài điều khiển máy dệt khung gỗ truyền thống. Đây là 1 trong những gia đình còn giữ lại kiểu máy dệt khung gỗ Nghè Diễn
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 5
Nghề dệt chứng minh cho sự chịu thương chịu khó của người xứ Quảng. Trong ảnh: Để chuẩn bị cho việc dệt vải, Bà Hoa ngồi hơn 3 giờ liền để nối hơn 8000 mối sợi tơ với nhau, khổ dài 2 mét.
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 6
Tra con thoi vào khuông thoi
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 7
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 8
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 9
Khám phá làng dệt vải cổ nhất Sài Gòn - ảnh 10
Những động cơ của máy dệt bằng khung gỗ hao mòn, gỉ sét qua gần nửa thế kỷ hoạt động
NGUON

:https://infonet.vn/kham-pha-lang-det-vai-co-nhat-sai-gon-post213516.info


___________________________

9 comments:

  1. Chúc bạn ngày làm việc đầu tiên của năm mới nhiều may mắn và tràn đầy niềm vui
    ReplyDelete
    Replies



    1. Cám ơn bạn ...chúc mừng năm mới...mọi sự tốt đẹp...
      Delete
  2. Chào bạn Võ Phú Bông,
    Chắc bạn cùng quê với tui và bạn lấy tên quê ta làm nickname? Bạn đang ở mô rứa? Bạn là con cháu thuộc gia đình mô? Núa thử tui có quen không hỉ? Tui đang ở Chicago USA
    ReplyDelete

  3. Chào anh Phan Lục...Tôi cũng đang tìm anh đó...Số là đọc trên mạng thấy tên anh và cả hình quen,tôi nghi anh cùng quê...Quảng nam -Bảy hiền -Phú Bông...Bây giờ chắc quả đúng vậy rồi phải không? Anh có người em trai Phan Việt có làm thơ...bây giờ nghe nói ở Houston phải không ? Tôi với Hồ xuân Thọ,Nguyễn tăng Tám,Ngô Tám,đều là bạn hồi nhỏ ở làng Ngủ thôn Phú Bông...Tôi đang ở Cali ...Anh có thể liên lạc tôi .Emai :vophubong@yahoo.com ...Chào anh...
    ReplyDelete
    Replies


    1. Chào bạn,
      Rất mừng "tha hương ngộ cố tri (của em mình)". Tôi là anh cả của Phan Hồng Việt (em út) đang ở Fort Worth, TX. Ngô Tám, Nguyễn tăng Tám đều là bà con bên ngoại của tôi gọi tôi bằng anh. BS Hồ xuân Thọ là em chồng của em gái tôi (vợ Hồ xuân Trinh). Xin lỗi bạn là lớp nhỏ hơn nên tôi không biết. Vả lại, tôi lại đi xa từ nhỏ, rất ít ở Phú Bông cũng như không sống bằng nghề dệt ở Bảy Hiền nên càng ít biết đồng hương. Tuy nhiên, nếu bạn cho tôi biết bạn là con ông bà nào thì tôi có thể nhận ra và đôi khi không chừng lại có dính líu bà con bên ngoại (ví dụ, họ Võ bên ong Võ quang Trử chẳng hạn). Bạn ở thành phố nào bên Cali, có ở gần Nguyễn tăng Tám (Sacramento)hay không? Có một người lấy bút danh Hồ Phú Bông viết nhiều bài báo lắm, có tiểu sử là thuộc dòng họ Hồ với Hồ xuân Thọ và là cựu SQ/QLVNCH nhưng không thấy email address hoặc phone number nên tôi không tìm ra được. Bạn co biết người đó không?
      Hẹn sẽ gọi điện thoại sớm cho bạn vào cuối tuần này để nói chuyện nhiều hơn. Chúc bạn và quý quyến vạn sự an lành
      Delete
  4. Gởi anh Phú Bông,

    Nhân được đọc bài viết rất hay về "làng dệt Bảy Hiền",
    ở phía sau của bài có một nhận xét ngày 15.01.2013:

    "Máy dệt ông Cữu Diễn - một tổ sư nghề dệt Quảng nam
    [người làng Đông yên,Duy xuyên, QN...].."

    Tôi thấy đoạn này không được chính xác lắm, đúng phải là:

    [người làng Thi Lai, xã Xuyên Trường, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam]

    Anh xem lại và điều chỉnh dùm.

    Trịnh Bổn
    (người Quảng, đã ở Bảy Hiền, hiện đang sống ở Đức)

    Ông Cửu Diễn tên thật là Võ Dẫn, sinh năm 1897 (đinh dậu), tại làng Thi Lai, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nay đổi là xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
    [theo TRAN GIA PHUNG­­]
    Chao anh BON toi da dieu chinh roi do,chuc vui ve...
    Chào anh Bổn,tôi đã điều chỉnh rồi đó...
    Anh nói anh trước ở Bảy hiền,nay ở Đức...lại nói là Trịnh Bổn,tôi đã nhận ra ngay anh là ai rồi...
    Tôi là anh rễ của Lê Chín,chồng chị Bảy[Lê thị Cúc] ,chị Bảy cũng là chị của Vân Anh [Lê thị Anh],cùng ở xóm dệt thôi...bây giờ Chín và Anh cùng ở tại Đức đó,tôi nhớ không lầm nhà anh ở gần cái giếng nước chạy qua đường trứơc nhà phải không?
    Anh có thể tham gia bài viết về Quang nam-Bảy hiền và cổ động mọi người tham gia đọc viết[nếu thích].
    Tôi hiện đang sống tại Mỹ...
    Thân ái,chào anh...
    vophubong
    ReplyDelete
    Replies


    1. Cam on cac ban ghe tham ...Chao mua xuan vui ve...
      Delete