Friday, January 27, 2017

Năm Con Gà, Nói Chuyện Gà

Năm Con Gà, Nói Chuyện Gà


Năm Con Gà, nói chuyện Gà trong ngôn ngữ dân gian và trong văn thơ Việt Nam
Con gà, và đặc biệt là tiếng gà gáy là những hình ảnh và âm thanh thân thương quen thuộc ở nông thôn, làng xóm Việt Nam. "c.hó giữ nhà, gà gáy trống canh". Chính vì vậy người ta rất dễ tìm thấy hình ảnh con gà và tiếng gà gáy trong nhiều câu thành ngữ, tục ngữ, cũng như trong văn thơ, có liên quan đến đặc tính của gà, xấu cũng có mà tốt cũng nhiều.
Con gà có một nhược điểm mà ngôn ngữ dân gian ghi nhận, chính là thị giác kém cỏi vào lúc trời chạng vạng tối: Quáng Gà. Ngoài ra loài gà thường mắc chứng bệnh sâu mắt làm hỏng thị giác, vì vậy nó bị gán thêm hai chữ gà mờ. Hai tiếng này thường được dùng theo nghĩa bóng, chỉ những kẻ thiếu hiểu biết trong một lãnh vực nào đó. Từ đó mới có thêm câu
ngây ngô như gà mờ, lờ mờ như đom đóm đực.

Ngoài ra, gà có dáng dấp ngơ ngác, lơ láo, nên người ta thường bảo ngơ ngác như gà con mất mẹ, gà mở cửa mả. Thành ngữ gà mở cửa mả là một lối nói đặc biệt của phương ngữ Nam bộ, được nhà tự điển Huỳnh Tịnh Của giải thích như sau: gà dùng mở cửa mả rồi thì khờ, không còn biết đàng nào mà đi.
Trong Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức (Lê ngọc Trụ hiệu đính) đã nói rõ hơn :
Con gà ôm từ nhà ra nghĩa địa rồi được thả ra giữa đông người, trước tiếng mỏ tiếng chuông và tiếng tụng kinh trong lễ mở cửa mả, nên khờ khạo ngơ ngác.
Tội nghiệp nhất là mấy chú gà con lạc mẹ, đã không tự kiếm ăn được mà còn bị đe dọa bởi sự xuất hiện của mấy con quạ, con diều hâu, vì thế nên có câu: sểnh nạ quạ tha, (nạ là mẹ).
Con gà, trong lúc tìm thức ăn, thường hay bới móc bừa bãi lung tung, nên có câu
vắng chủ nhà gà bới bếp, 
hay vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm

(Câu này bị tam sao thất bổn, nên có nhiều nơi nói là vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm).
Thành ngữ này thường được dùng để ám chỉ khi ông sếp (hay cha mẹ) đi vắng thì nhân viên (hay con cái) tha hồ làm gì thì làm.
Gà nhà bươi phá trong nhà đã đành, nhưng gà của hàng xóm mà vào bươi phá nhà mình mới là phiền. Vì vậy có câu trấu trong nhà để gà ai bới.
Phương tiện chính để kiếm ăn của gà là cặp giò. Nếu cặp giò mà có bề gì thì con gà đành nằm một chỗ, chỉ còn cái mỏ mổ bậy chung quanh, vì vậy có câu gà què ăn quẩn cối xay.
Riêng mấy chị gà mái, ngay sau khi đẻ trứng thì kêu lên inh ỏi, nên có câu gà đẻ gà cục tác, Câu này ám chỉ những hành động ngớ ngẩn dại dột cái kiểu lạy ông tui ở bụi này ...
Nhưng cũng có nhiều chị gà mái không hiền, nên mới có câu gà mái đá gà cồ. Nhiều người đã dí dỏm ghép chung với câu tiếng Hán nữ kê tác quái gà mái đá gà cồ. Mượn hình ảnh của một nữ quái kê để ám chỉ mấy mụ đàn bà có thói ăn hiếp đức ông chồng..
Trong khi con gà mái bị chê vì hành động lấn lướt đức lang quân, thì anh gà trống lại được khen về đức độ đảm đang và đùm bọc đám con cái, nên có câu gà trống nuôi con. Câu nói này để chỉ những người đàn ông góa vợ, mà vẫn một lòng tận tụy nuôi con.
Liên quan đến tiếng gáy, dân gian còn nhận xét rằng gà tức nhau tiếng gáy, câu nói này còn ám chỉ những ngưòi có tính hơn thua.
Gà một chuồng, có khi cùng một mẹ, có lúc bôi mặt đá nhau. Và cũng để tránh cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn, dân gian đã có lời khuyên khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Ngày xưa, mỗi khi muốn xin xỏ việc gì, người dân thường phải nhờ đến mấy ông thầy ký viết đơn hộ. Khi đơn viết xong, phải giết gà mà đãi ông ta. Vì vậy mới có câu bút sa gà chết. Câu này cũng nhắc nhở mọi người, trước khi quyết đinh điều gì phải cân nhắc kỹ lưõng, nhất là khi đặt bút xuống ký trên bất cứ giấy tờ gì.
Trong ngôn ngữ dân gian Việt Nam, con gà trống chưa bao giờ có đuợc hình ảnh kiêu kỳ, uy nghi như trong ngôn ngữ dân gian của Pháp, chẳng hạn như Fier comme un coq (kênh kiệu như con gà trống).
Người nông dân Pháp quan niệm rằng con gà trống là vua trong sân gia cầm (roi de la basse-cour), từ đó mà có lối nói ẩn dụ: être le coq du village (là nhân vật quan trọng nhất làng).
Người Anh cũng đã dùng danh từ con gà trống: the cock để ám chỉ ngưới cầm đầu, kẻ tai mắt. Đây là một cương vị mà con gà trống Việt Nam chưa có được.
Trong ngôn ngữ dân gian, dường như người ta chỉ vờ khen bộ lông con gà trống: con gà tốt mã vì lông để mà chê bai về một khả năng của giống đực khác; ....nhanh như gà.. !
Chỉ trong một số câu đố dân gian, thì anh gà trống mới được mô tả oai phong một chút :
Chân đạp miền thánh địa
Đầu đội mũ bình thiên
Mình thì bận áo mã tiên
Ban ngày bảy vợ, đêm nằm riêng kêu trời

Hoặc là :
Trên đầu đội sắc vua ban
Dưới thời yếm thắm, dây vàng xum xoe..

Con gà thì chẳng có gì hay ho lắm, tuy nhiên tiếng gáy của con gà lại mang nhiều biểu tượng, mà biểu tượng đặc biệt là về thời gian. Khi mà người ta còn tính thời gian đêm năm canh ngày sáu khắc, lúc mà chiếc đồng hồ vẫn còn là một cái gì xa lạ với dân gian, thì tiếng gà gáy là một cái gì thật quan trọng:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.

Tiếng gà gáy thì vô tri vô thức, nhưng khi đưa vào văn thơ, đã trở thành một hiện tượng quan hệ mật thiết với con người. Trong văn học, tiếng gà cất lên giữa vui buồn chìm nổi, giữa thao thức trằn trọc của con người. Ta hãy nghe Nguyễn Du tả trong truyện Kiều :
Những là đo đắn ngược xuôi
Tiếng gà nghe gáy đã soi mái tường 
Lầu mai giữa lúc còi sương
Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi

Lúc này Kiều đã bán mình chuộc cha, Mã Giám Sinh hối hả đưa Kiều về nhà chứa tú bà, để sau đó Kiều mắc mưu phải bỏ trốn theo Sở Khanh :
Tiếng gà xao xác gáy mau
Tiếng người đâu đã mé sau dây dàng
Nàng càng thổn thức gan vàng
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào

Khi rơi vào tay của Hoạn thư, Kiều lại tìm đuờng bỏ trốn :
Mịt mù dặm cát đồi cây
Tiếng gà điểm nguyệt dấu giày cầu sương
Canh khuya thân gái dặm trường
Phần e đường sá phần e dãi dầu

Trong Chinh Phụ Ngâm, người chinh phụ đêm ngày nhớ thương trông ngóng chồng, năm canh trằn trọc:
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương
Gà eo óc gáy sương năm trốn
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên

Đến Thơ Mới thời 1932-1945, con người thường hiện ra bơ vơ, lạc loài, ngơ ngác giữa xã hội nhân quần , ta hãy nghe Huy Cận than thở:
Tới ngã ba sông nước bốn bề
Đến chiều gà lại gáy bên đê

Tiếng gà gáy ban đêm làm cho ngưới ta thêm ưu tư trằn trọc, xót thương cho thân phận cô đơn chiếc bóng của mình. Tiếng gà gáy buổi chiều càng thúc giục người ta trước một quyết định khó khăn nào đó. Nhưng tiếng gà gáy buổi trưa lại làm cho lòng dạ não nùng, da diết nhớ lại những kỷ niệm buồn từ một thời nào đó xa xăm. Nhà thơ Lưu Trọng Lư viết :
Những lần nắng mới hắt qua sông
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không

Tiếng gà cũng là biểu hiện của những cuộc chia tay. Lúc ấy tiếng gà lại là nỗi lo âu của những ngưới sắp phải nói lên lời từ biệt. Ta hãy nghe tiếng gà của Xuân Diệu trong bài thơ nỗi tiếng Lời Kỹ Nữ:
Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt,
Mắt run mờ kỹ nữ thấy sông trôi
Du khách đi
Du khách đã đi rồi

Và tiếng gà của Lưu Trọng Lư trong bài thơ Giang Hồ :
Mời anh cạn hết chén này
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn
Tiếng gà đã rộn trong thôn
Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay..

Khi tiếng gà gáy dồn dập, hối thúc, như tiếng đập cửa réo gọi giang hồ kiếp ấy trọn đời phiêu linh, và gỡ tay vướng để theo lời non nước. Vì vậy, với nhà cách mạng Phan Bội châu, tiếng gà chính là biểu tượng của thức tỉnh, của đấu tranh :
Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng
Đời đã mới, người càng nên đổi mới
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội
Xúm vai vào gánh vác cựu giang sơn

Trong kho tàng văn chương Việt Nam, tiếng gà gáy đã có một vị trí nhất định của nó. Và với mỗi một người trong chúng ta chắc chắn tiếng gà gáy cũng đã để lại trong lòng ít nhiều kỷ niệm. Riêng những người sống tha phương, đã bao nhiêu năm thiếu vắng tiếng gà trong đời sống, nếu có lần trở lại quê nhà, bất chợt nghe được tiếng gà gáy, sẽ cảm thấy lòng man mác bâng khuâng, nhớ lại một thời vui buồn nào đó. Tiếng gà, cuối cùng, cũng đã trở thành một biểu tượng của quê hương, của một mất mát, trong lòng những người Việt Nam xa xứ.
Thụy Nguyên
(phỏng theo tài liệu của Liễu Thy và Lê Đình Ky)

Nguồn: Ninh Hòa.com

Monday, January 23, 2017

NĂM DẬU NÓI CHUYỆN GÀ

NĂM DẬU NÓI CHUYỆN GÀ

Con Gà cục tác lá chanh
Con Lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con Chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
 
   Bốn câu thơ bình dân trên đã mô tả đúng cách nấu ăn của dân tộc ta tại thôn quê miền Bắc.  Con Gà được nhắc đến trước tiên có lẽ vì thịt Gà là một trong những món ăn quen thuộc , vừa ngon miệng và đầy đủ dinh dưỡng.Người dân Giao Chỉ chúng ta sành ăn đã biết biến chế ra nhiều món nào là: Gà rô ti, gà xào xã ớt, gà xối mỡ, gà ram mặn, gà nướng ngũ vị hương, gà nấu mắm, gà hấp muối, gà cà ri, cành gà chiên bơ, gà tiềm thuốc bắc … và còn nhiều kiểu nấu khác …
    

   Vào cuối thập niên 1950, tại Sàigòn có cuộc bút chiến giữa hai tờ nhật báo về vụ Gà Mỹ và Gà Ta. Vào thời điểm này, có phong trào nuôi gà Mỹ do bộ Canh Nông khuyến khích và hướng dẫn.  Gà được nuôi trong chuồng bằng lưới kẽm và cho ăn loại thực phẩm trộn sẵn.  Những độc giả tham gia cuộc chiến, và đã chia ra làm hai nhóm và với hai quan điểm khác nhau:

   Nhóm gà Mỹ: Cho rằng nuôi theo kiểu Hoa Kỳ khoa học hơn, sản xuất mau chóng, gà ít bị mắc bệnh, ăn hợp vệ sinh hơn.
   Nhóm gà Ta: Chủ trương nuôi gà theo phương pháp tự nhiên, thả chạy rong ngoài vườn để gà tự do bươi đất tìm thức ăn như côn trùng, giun dế..do đó thịt cứng và thơm ngon.
   Cuộc bút chiến càng ngày càng sôi nổi, có người còn ví von gà Mỹ như cô gái thị thành, trắng trẻo, mềm mại, trông hấp dẫn nhưng da thịt nhão, ăn mau chán.
   Ngược lại gà rẫy được ví như cô gái quê miệt vườn, tuy trông quê mùa nhưng da thịt cứng cáp, hương vị đậm đà, ngát thơm hương cốm.
   Trong lúc trận bút chiến đang hồi gay cấn, ông Kỹ Sư canh nông đặc trách chương trình chăn nuôi liền viết một bài lên tiếng trên mặt báo:  Cho rằng nuôi gà theo kiểu Mỹ lợi tức cao, thịt gà tinh khiết hợp tiêu chuẩn vệ sinh. Riêng ông, vì nặng lòng với quốc gia dân tộc, cá nhân ông vẫn thích ăn gà ta! Thế là cả hai phe lâm chiến đều vui vẻ, đồng ý hoà hợp dân tộc, sống chung hoà bình.
   Con gà rất gần gũi với giới bình dân Việt Nam. Vào dịp tết Nguyên Đán, người ta thường treo lên vách bức tranh gà sặc sở cho có vẽ mùa Xuân.
     Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
     Om xòm trên vách bức tranh gà.
   (Tú Xương)
   Trong đêm khuya thanh vắng tiếng gà gáy là đồng hồ báo thức bác nông dân để sửa soạn ra đồng, hoặc báo cho chú Tiểu trong chùa pha trà, nện chuông cúng Phật:
    Gió đưa cành trúc la đà
    Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

Hoặc:
    Canh gà điểm nguyệt, tiếng chày nện sương.

   Trên đường ra chợ lúc còn tinh sương, các cô gánh hàng cũng nghe văng vẳng tiếng gà bên tai:
    Sớm mai gà gáy ó o
    Chưa ra tới chợ­, đã lo ăn hàng.

   Thậm chí, cách trang điểm của đàn bà Việt Nam cũng liên hệ đến con gà.  Kiểu bới đầu có thả vòng  và chừa một chỏm tóc phía sau ót gọi là "bới tóc đuôi gà". Nơi nhãn hiệu xà bông Cô Ba của hãng Trương Văn Bền thời tiền chiến, có hình kiểu bới tóc này.  Cục bưu chính Đông Dương trước kia cũng đãphát hành một loại tem có hình cô Ba, với búi tóc đuôi gà.

   Chàng thanh niên chất phác, vì quá yêu cô thôn nữ, có thể đón đường cô gái để tỏ tình một cách táo bạo:
    Chị kia bới tóc đuôi gà
    Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu?
    ...Nhà tôi ở dưới đám dâu
    Ở bên đám dậu, đầu cầu ngó qua...

   Gà sống quanh quần sau hè, gần gủi với loài người, nên dễ nhận xét điệu bộ, diện mạo của gà.  Do đó, mọi việc hay dở đều lôi con gà ra đề ví von:
   Người có bộ mặt ngơ ngác gọi là “gà mở cửa mã”
   Người xơ xác gọi là “gà kẹt giỏ”
   Người tiều tuỵ gọi là “gà mắc nước”
   Kẻ ngất ngư gọi là “gà nuốt giây thun”
   Kẻ khù khờ gọi là “gà trống thiến”
   Kẻ nhát gan gọi là “gà phải cáo”
   Kẻ nhầm lẫn gọi là “trông gà hoá quốc”
   Kẻ bất tài gọi là “gà què ăn quẩn cối xay”
   Kẻ phản bội gọi là “gà nhà bôi mặt đá nhau”
Trước cảnh huynh đệ tương tàn, người ta hay khuyên bảo:
   Khôn ngoan đối đáp người ngoài
   Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

 Sau cùng, các người đàn bà đanh đá được tặng cho hỗn danh:
    Nữ kê tác quái, gà mái đá gà cồ.

   Gà thuộc loại hạ đẳng, chỉ dùng làm thực phẩm bình dân hàng ngày, không thể thết đãi hàng thượng khách.  Trong buổi tiệc lịch sử tại Bắc Kinh do Chủ tịch Mao Trạch Đông khoản đãi Tổng thống Nixon năm 1972, gồm hai mươi mốt món, nhưng không có món thịt Gà.  Quả thật người Trung Hoa rất tế nhị trong vấn đề ăn uống.
   Ở nước ta, Cụ nguyễn Đình Chiểu cũng rất gần sành nghi thức đãi tiệc.  Trong bài thơ Ông Quán, cụ Đồ đã chào hàng một cách thật hấp dẫn:
    Quán rằng thịt cá ê hề
    Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu
    Kìa là thuốc lá ướp ngâu
    Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương
    Để khi đãi khách giàu sang
    Đãi người danh vọng, đãi trang anh hùng.

Như vậy, trong thực đơn của cụ Đồ Chiểu cũng không có món thịt gà.

   Trong văn chương cũng như ngôn ngữ hằng ngày, con gà dù được nhân cách hoá cũng chỉ nói đến những người thường bình dân, còn những bậc chính nhân quân tử thì được ví như những con Phượng hoàng trên cao mà thôi:
    Phượng hoàng đậu nhánh cheo leo
    Sa cơ thất thế phải theo đàn gà
    Bao giờ mưa thuận gió hoà
    Thay lông đổi cánh lại ra Phượng hoàng.

   Vậy mọi người trong chúng ta có ai đã thấy được Phượng hoàng chưa?

   Xin chúc tất cả quý độc giả một năm Ất Dậu đầy hỷ sự.
   Cảm ơn Anh Trần Hội đã giúp em có những tài liệu này.

Nguyễn Phước Mộng Thiên
 
http://vanghe.blogspot.com/2016/12/nam-dau-noi-chuyen-ga.html

Thursday, January 12, 2017

Vàng Anh - Loài Chim Huyền Thoại

Mì Quảng đặc sản nấu cá tràu


Mì Quảng đặc sản nấu cá tràu

Xã Quảng Điền nằm ở phía cực nam của huyện Krông Ana (tỉnh Đắk Lắk) là khu dân cư đến từ đất Quảng. Không chỉ mang theo tên đất tên làng mà họ còn mang theo món ăn đặc sản của quê hương trong những chuyến di dân. Một trong những món ăn đó là mì Quảng, nhưng là mì Quảng nấu cá tràu.
Để có tô mì Quảng ngon phải qua nhiều công đoạn. Đầu tiên là vo gạo, ngâm rồi xay bột, lấy trùng bột vừa bánh mới ngon. Tráng bánh đòi hỏi phải khéo tay, bánh mỏng, đều thì con mì ngon hơn khi ăn. Bánh tráng xong lấy ra gọi là mì lá. Xắt lá mì thành sợi là việc làm thể thiện tay nghề người làm bánh. Một tay cầm cán dao, một tay đặt lên mũi dao lần lượt nhấn từng tay xuống vừa di chuyền dần theo lá mì gấp tư để tạo thành mì sợi.
9 t1 Mì Quảng đặc sản nấu cá tràu
Công việc này gọi là chấn mì. Người khéo tay, lành nghề mới làm nhanh và con mì đều được. Mới là sợi mì đã lắm công phu, người ăn được thưởng thức cả sự cầu kỳ và kỹ năng người thợ trong từng con mì. Nước nhưn ăn mì cũng không kém phần công phu.
Thông thường nhưn mì được nấu từ xương heo, cà chua, trái thơm xắt lát mỏng, thịt heo nạc, đậu khuôn xắt lát và một số loại rau thơm, hành ngò. Nước nhưn ăn mì Quảng ngon ở vị ngọt, ít béo. Muốn ngon hơn thì nấu nhưn thịt gà. Ở Quảng Điền món ăn này ngon hơn nhờ nhưn cá tràu. Cá ở đây nhiều nên giá thành một nồi nhưn cá tràu rẻ hơn nhưn gà mà lại ngọt hơn, ngon hơn.
Cá tràu làm sạch luộc chín rồi ráy thành lát nhỏ, ướp gia vị, um thật thấm thêm nước và gia vị khác vào nấu nhưn mì Quảng. Xương và đầu cá tràu không bỏ đi mà giã nhuyễn, cho nước vào lọc bỏ xác thêm vào nồi nhưn. Nước lấy từ xương và đầu cá sẽ làm nước nhưn ngọt hơn.
Vì đây là vùng núi nên có thêm măng khô trong nồi nhưn mì Quảng, một ít nấm rơm và tôm đồng để tạo vị ngọt thơm đặc biệt của món ăn này. Mì Quảng ăn với rau sống, giá đỗ, bánh tráng nướng, chanh ớt và đậu phộng rang giã nhỏ tạo hương vị riêng rất ấn tượng. Để ăn cũng có nét riêng là dùng đũa mà không có muỗng. Nước nhưn trong tô muốn ăn phải bưng tô lên chứ không dùng muỗng như ăn phở.
Trong và sau những ngày Tết Nguyên đán người ta thường có cảm giác ngấy thịt heo thì càng được ưa chuộng bởi vị ngọt ngon từ con mì đến nước nhưn.
Trong tâm thức người dân ở Quảng Điền có niềm tin đầu năm ăn cá tràu thì cả năm sẽ khỏe mạnh. Vì vậy nhiều nhà rộng cá để dành cho ngày tết. Trong mâm cơm cúng gia tiên vào ngày mồng ba Tết Nguyên đán thường có món mì Quảng cá tràu vừa để tỏ lòng thành, vừa cầu bình an, khỏe mạnh trong năm.
Với những người con xứ Quảng sống xa quê, mì Quảng cá tràu chắc chắn còn là món ăn vừa ngon vừa mang nặng tâm tình bởi mang đậm nét văn hóa con người đất Quảng.

 http://www.dacsanquangnam.com/mi-quang-dac-san-nau-ca-trau.html

Cùng Danh Mục

Liên Quan Khác

Cách trồng hoa hồng tại nhà bằng cành hoa hồng và củ khoai tây

Thursday, January 5, 2017

MÌ QUẢNG - PHÚ CHIÊM

https://www.youtube.com/watch?v=Y7kL1VJUhSo&feature=share  
MÌ QUẢNG - PHÚ CHIÊM

Mỗi sáng tinh mơ, từ làng quê Phú Chiêm (Điện Bàn, Quảng Nam) thanh bình, những gánh mì theo chân các mẹ, các chị tỏa khắp các nẻo đường quê, lên phố huyện hay theo những chuyến xe đò sớm nhất về các huyện lân cận.

Giữa bao nhiêu món quà điểm tâm thơm ngon và quyến rũ, hàng mì Phú Chiêm luôn khá dân dã và thân thương với đôi quang gánh, vài chiếc bàn cùng vài cái ghế trên một khoảng đất trống dưới gốc cây đa, cây bàng,.... Nhưng hàng mì Phú Chiêm lúc nào cũng đông khách, cô bán mì hai má ửng hồng bên bếp than, nụ cười xinh tươi, đôi tay dịu dàng, thoăn thoắt chan mì cho khách.

Người ta thường nói vui rằng, đến Quảng Nam mà chưa ăn mì Quảng thì xem như chưa từng đến. Còn người Quảng Nam hay "nói dóc" rằng, ăn mì Quảng mà chưa từng ăn mì Phú Chiêm thì đừng kể gì hết.


https://www.youtube.com/watch?v=Y7kL1VJUhSo&feature=share